2025-02-07 23:46:46
Chuyển Động Tài Chính
15/01/2024 Kiến thức
Chia sẻ:

Bản vị Vàng: Định nghĩa, cách thức hoạt động và ví dụ!

Bản vị Vàng là gì?

Bản vị vàng là một chế độ tiền tệ cố định, theo đó tiền tệ của chính phủ được cố định và có thể tự do chuyển đổi thành vàng. Nó cũng có thể đề cập đến một hệ thống tiền tệ cạnh tranh tự do trong đó vàng hoặc các khoản thu từ ngân hàng đối với vàng đóng vai trò là phương tiện trao đổi chính; hoặc theo tiêu chuẩn thương mại quốc tế, trong đó một số hoặc tất cả các quốc gia ấn định tỷ giá hối đoái của họ dựa trên giá trị ngang giá vàng tương đối giữa các loại tiền tệ riêng lẻ .

 

NỘI DUNG CHÍNH

  • Bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ được hỗ trợ bởi giá trị của vàng vật chất.
  • Tiền vàng, cũng như tiền giấy được hỗ trợ hoặc có thể đổi thành vàng, được sử dụng làm tiền tệ trong hệ thống này.
  • Bản vị vàng phổ biến trong nền văn minh nhân loại, thường là một phần của hệ thống lưỡng kim có sử dụng bạc.
  • Hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đã từ bỏ chế độ bản vị vàng kể từ những năm 1930 và hiện có chế độ tiền tệ fiat thả nổi tự do.

Bản vị vàng hoạt động như thế nào?

Bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ trong đó tiền tệ hoặc tiền giấy của một quốc gia có giá trị liên quan trực tiếp đến vàng. Với chế độ bản vị vàng, các nước đồng ý quy đổi tiền giấy thành một lượng vàng cố định.

Một quốc gia sử dụng bản vị vàng sẽ ấn định một mức giá cố định cho vàng và mua bán vàng ở mức giá đó. Giá cố định đó được sử dụng để xác định giá trị của tiền tệ. Ví dụ: nếu Hoa Kỳ đặt  giá vàng ở mức 500 USD/ounce thì giá trị của đồng đô la sẽ là 1/500 của một ounce vàng.

Bản vị vàng đã phát triển một định nghĩa mơ hồ theo thời gian nhưng thường được sử dụng để mô tả bất kỳ chế độ tiền tệ dựa trên hàng hóa nào không dựa vào tiền định danh không được hỗ trợ hoặc tiền chỉ có giá trị vì chính phủ buộc người dân phải sử dụng nó. Tuy nhiên, ngoài điều đó ra, còn có những khác biệt lớn.

Một số bnar vị vàng chỉ dựa vào sự lưu thông thực tế của đồng xu và thỏi vàng vật chất hoặc vàng miếng, nhưng một số khác lại cho phép các hàng hóa hoặc tiền giấy khác. Các hệ thống lịch sử gần đây chỉ cấp khả năng chuyển đổi tiền tệ quốc gia thành vàng, do đó hạn chế khả năng lạm phát và giảm phát của các ngân hàng hoặc chính phủ.

Tại sao lại là Vàng?

Hầu hết những người ủng hộ hàng hóa - tiền tệ đều chọn vàng làm phương tiện trao đổi vì những đặc tính nội tại của nó. Vàng có những ứng dụng phi tiền tệ, đặc biệt là trong lĩnh vực trang sức, điện tử và nha khoa, vì vậy vàng phải luôn duy trì mức nhu cầu thực tế tối thiểu.

Nó có thể phân chia hoàn toàn và đồng đều mà không mất giá trị, không giống như kim cương và không bị hư hỏng theo thời gian. Không thể làm giả một cách hoàn hảo và có lượng vàng cố định - có rất nhiều vàng trên Trái đất và lạm phát bị giới hạn ở tốc độ khai thác.

Ưu điểm và nhược điểm của Bản vị Vàng

Có nhiều lợi ích khi sử dụng chế độ bản vị vàng, bao gồm cả việc ổn định giá cả. Đây là một lợi thế lâu dài khiến các chính phủ khó tăng giá hơn bằng cách mở rộng cung tiền.

Lạm phát rất hiếm và siêu lạm phát không xảy ra vì nguồn cung tiền chỉ có thể tăng nếu nguồn cung dự trữ vàng tăng. Tương tự, bản vị vàng có thể đưa ra tỷ giá quốc tế cố định giữa các quốc gia tham gia và cũng có thể làm giảm sự không chắc chắn trong thương mại quốc tế. 

Nhưng nó có thể gây ra sự mất cân bằng giữa các quốc gia tham gia chế độ bản vị vàng. Các quốc gia sản xuất vàng có thể có lợi thế hơn những quốc gia không sản xuất kim loại quý, do đó làm tăng trữ lượng của họ.

Theo một số nhà kinh tế, bản vị vàng cũng có thể ngăn chặn việc giảm thiểu suy thoái kinh tế vì nó cản trở khả năng chính phủ tăng cung tiền - một công cụ mà nhiều ngân hàng trung ương sử dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 

Lịch sử của Bản vị Vàng

Khoảng năm 650 trước Công nguyên, vàng lần đầu tiên được đúc thành tiền xu, nâng cao khả năng sử dụng của nó như một đơn vị tiền tệ. Trước đó, vàng phải được cân và kiểm tra độ tinh khiết khi thực hiện giao dịch.

Tiền vàng không phải là một giải pháp hoàn hảo, vì một thông lệ trong nhiều thế kỷ sau đó là cắt những đồng xu hơi bất thường này để tích lũy đủ vàng có thể nấu chảy thành thỏi. Năm 1696, cuộc Đại thu hồi tiền ở Anh đã giới thiệu một công nghệ tự động hóa việc sản xuất tiền xu và chấm dứt việc cắt bớt tiền.

Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1789 đã trao cho Quốc hội quyền duy nhất về việc đúc tiền và quyền điều chỉnh giá trị của nó. Việc tạo ra một đồng tiền quốc gia thống nhất cho phép tiêu chuẩn hóa một hệ thống tiền tệ cho đến thời điểm đó bao gồm các đồng tiền nước ngoài đang lưu hành, chủ yếu là bạc.

Với lượng bạc dồi dào hơn so với vàng,  tiêu chuẩn lưỡng kim  đã được áp dụng vào năm 1792. Trong khi tỷ lệ ngang giá giữa bạc và vàng được chính thức áp dụng là 15:1 phản ánh chính xác tỷ lệ thị trường vào thời điểm đó, thì sau năm 1793, giá trị của bạc liên tục giảm, đẩy vàng ra khỏi lưu thông, theo định luật Gresham.

Bản vị vàng hiện không được sử dụng bởi bất kỳ chính phủ nào. Anh ngừng sử dụng bản vị vàng vào năm 1931 và Mỹ cũng làm theo vào năm 1933 và từ bỏ những tàn dư của hệ thống này vào năm 1973.

Cái gọi là "kỷ nguyên bản vị vàng cổ điển" bắt đầu ở Anh vào năm 1819 và lan sang Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Bỉ và Hoa Kỳ. Mỗi chính phủ đều neo đồng tiền quốc gia của mình vào một trọng lượng cố định bằng vàng. Ví dụ, đến năm 1834, đô la Mỹ có thể chuyển đổi thành vàng với tỷ giá 20,67 USD/ounce. Những tỷ giá ngang bằng này được sử dụng để định giá các giao dịch quốc tế. Các quốc gia khác sau đó đã tham gia để tiếp cận thị trường thương mại phương Tây.

Có nhiều gián đoạn trong chế độ bản vị vàng, đặc biệt là trong thời chiến, và nhiều quốc gia đã thử nghiệm các tiêu chuẩn lưỡng kim (vàng và bạc). Các chính phủ thường xuyên chi tiêu nhiều hơn mức dự trữ vàng của họ có thể mang lại, và việc đình chỉ các tiêu chuẩn vàng quốc gia là cực kỳ phổ biến. Hơn nữa, các chính phủ đã nỗ lực để xác định chính xác mối quan hệ giữa tiền tệ quốc gia và vàng mà không tạo ra sự biến dạng.

Chừng nào các chính phủ hoặc ngân hàng trung ương còn giữ được đặc quyền độc quyền trong việc cung cấp tiền tệ quốc gia thì chế độ bản vị vàng đã chứng tỏ sự hạn chế không hiệu quả hoặc không nhất quán đối với chính sách tài khóa. Bản vị vàng dần bị xói mòn trong thế kỷ 20. Điều này bắt đầu ở Hoa Kỳ vào năm 1933, khi Franklin Delano Roosevelt ký một sắc lệnh hành pháp hình sự hóa việc tư nhân sở hữu vàng tiền tệ.

Sau Thế chiến thứ hai, thỏa thuận Bretton Woods buộc các nước Đồng minh chấp nhận đồng đô la Mỹ làm dự trữ thay vì vàng và chính phủ Hoa Kỳ cam kết giữ đủ vàng để hỗ trợ đồng đô la của mình. Năm 1971, chính quyền Nixon chấm dứt khả năng chuyển đổi đô la Mỹ thành vàng, tạo ra chế độ tiền tệ pháp định.

Bản vị vàng so với tiền pháp định

Đúng như tên gọi của nó, thuật ngữ bản vị vàng dùng để chỉ một hệ thống tiền tệ trong đó giá trị của một loại tiền tệ dựa trên vàng. Ngược lại, hệ thống tiền pháp định là một hệ thống tiền tệ trong đó giá trị của một loại tiền tệ không dựa trên bất kỳ hàng hóa vật chất nào mà thay vào đó được phép dao động linh hoạt so với các loại tiền tệ khác trên thị trường ngoại hối.

Thuật ngữ "fiat" có nguồn gốc từ tiếng Latin  fieri , có nghĩa là một hành động hoặc sắc lệnh tùy tiện. Để phù hợp với từ nguyên này, giá trị của tiền tệ pháp định cuối cùng dựa trên thực tế là chúng được xác định là hợp pháp theo nghị định của chính phủ.

Trong những thập kỷ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thương mại quốc tế được tiến hành trên cơ sở cái được gọi là bản vị vàng cổ điển. Trong hệ thống này, thương mại giữa các quốc gia được giải quyết bằng vàng vật chất. Các quốc gia có thặng dư thương mại tích lũy vàng để thanh toán cho hàng xuất khẩu của mình. Ngược lại, các quốc gia có thâm hụt thương mại chứng kiến ​​trữ lượng vàng của họ sụt giảm do vàng chảy ra khỏi các quốc gia đó để thanh toán cho hàng nhập khẩu của họ.

Khi nào Hoa Kỳ từ bỏ Bản vị Vàng?

Mỹ chính thức ngừng sử dụng bản vị vàng vào năm 1971 dưới thời Tổng thống Nixon. Vào thời điểm đó, lạm phát đang gia tăng và có một đợt chạy đua vào vàng. Chính quyền Nixon đã chấm dứt khả năng chuyển đổi đô la thành vàng, điều này đã chấm dứt Hệ thống Bretton Woods.

Điều gì đã thay thế bản vị vàng?

Bản vị vàng ở Mỹ và nhiều quốc gia khác đã được thay thế bằng tiền pháp định. Tiền pháp định là tiền tệ của chính phủ, không được hỗ trợ bởi hàng hóa nhưng có giá trị vì chính phủ đã xác định rằng nó có giá trị và nó phải được chấp nhận như một hình thức thanh toán. Tiền pháp định bao gồm tiền giấy và tiền kim loại.

Có quốc gia nào vẫn sử dụng Bản vị vàng không?

Hiện nay không có quốc gia nào sử dụng bản vị vàng. Các quốc gia đã từ bỏ tiêu chuẩn vàng đối với tiền định danh. Tuy nhiên, các quốc gia vẫn duy trì dự trữ vàng.

Kết luận

Bản vị vàng là một hệ thống tiền tệ cố định, trong đó tiền tệ của chính phủ được cố định theo giá trị của vàng. Điều này trái ngược với các hệ thống tiền tệ sử dụng tiền định danh; tiền do chính phủ phát hành không gắn liền với hàng hóa.

Bản vị vàng được sử dụng nhiều trong suốt lịch sử, trong các nền văn minh cổ đại cũng như các quốc gia hiện đại. Hoa Kỳ đã sử dụng chế độ bản vị vàng nhưng cuối cùng đã dừng lại vào những năm 1970 và hiện nay là hệ thống tiền tệ dựa trên tiền pháp định.

Theo Investopedia

Đánh giá cả bạn về bài viết này